Tuy nhiên, càng chung chung, càng ít cô đọng, lại càng thuận lợi cho việc học các quy tắc thực hành. Sau khi đọc xong và hiểu được nội dung của một cuốn sách triết học, ta có thể kiểm tra tính chân thực của nó dựa trên kinh nghiệm thông thường. Trong đó, phần đầu tiên nói về…, phần thứ hai nói về…, phần thứ ba nói về…, (2) Phần thứ nhất lại bao gồm mấy nội dung nhỏ hơn: nội dung đầu tiên xem xét chủ đề X, nội dung thứ hai bàn về vấn đề Y, nội dung thứ ba đề cập đến Z…, (3) Trong nội dung đầu của phần thứ nhất, tác giả nêu ra mấy luận điểm.
Vì thế, chúng tôi xin đưa ra một cách phát biểu khác của quy tắc 7 như sau: NẾU CÓ THỂ HÃY TÌM TRONG SÁCH CÁC ĐOẠN TRÌNH BÀY NHỮNG LẬP LUẬN QUAN TRỌNG; CÒN TRONG TRƯỜNG HỢP LẬP LUẬN KHÔNG ĐƯỢC DIỄN ĐẠT CỤ THỂ, BẠN HÃY THIẾT LẬP LẠI BẰNG CÁCH TÁCH MỘT CÂU TỪ ĐOẠN NÀY VÀ MỘT CÂU TỪ ĐOẠN KIA CHO TỚI KHI THU THẬP ĐỦ CHUỖI CÂU NÊU LÊN NHỮNG NHẬN ĐỊNH CẤU THÀNH LẬP LUẬN. Nhiều tác phẩm lớn không chỉ có nội dung liên quan với nhau mà còn được viết theo một trình tự nhất định mà người đọc không thể bỏ qua. Hãy nhớ là không có tivi hay phương tiện giải trí gì trên đảo, cũng không có thư viện cho mượn sách về, chỉ có bạn và mười cuốn sách thôi.
Khi đối diện với một cuốn sách triết học, độc giả cũng không còn cách nào khác là phải đọc nó, nghĩa là suy nghĩ về nó. Chúng ta không những không được chấp nhận hệ thống ngôn từ của bất kì tác giả nào mà còn phải sẵn sàng đối mặt với khả năng là không có hệ thống ngôn từ nào mang lại ích lợi cho chúng ta. Các nhà triết học thời Aquinas chấp nhận như lẽ đương nhiên rằng họ cần sẵn sàng bảo vệ chính kiến của mình trong những cuộc tranh luận công khai khi có rất nhiều sinh viên và những người quan tâm tham dự.
Đó là: Hạnh phúc là bao hàm của những gì tốt đẹp nhất chứ không phải là điều quan trọng nhất trong những điều tốt đẹp. Và thỉnh thoảng, các đoạn của cùng một tác giả bình luận về các bài của một tác giả khác lại giúp người đọc hiểu thêm về tác giả có bài được bình luận kia. Tuy nhiên, có một sự khác biệt quan trọng giữa đọc cuốn sách loại này với đọc một cuốn sách thuần lý thuyết.
Những ai cố tưởng tượng xem các ý tưởng nói đến điều gì chỉ làm cho mình mụ mị đi và cuối cùng, chỉ cảm thấy vô vọng về các từ ngữ trừu tượng. 000 trang bị cắt chỉ còn mười hay thậm chí là một trang thì những gì bị cắt đi sẽ trở nên quan trọng. Sách toán học thường đòi hỏi sự chính xác, rõ ràng.
Lịch sử nói về hành động của con người trong quá khứ. Tác giả phải lý luận làm sao để có thể tác động đến cả con tim và khối óc của người đọc. Nhưng họ không thấy được những quy luật mà hoạ sĩ thực hiện.
Tài liệu tham khảo đều nói về những vấn đề hoàn toàn quen thuộc với người đọc. Ví dụ, niềm vui thích cực độ của nhiều thế hệ học sinh trung học khi đọc kịch của Shakespeare bị tiêu tan khi họ buộc phải tra từ điển tất cả các từ vựng mới, và học hết các chú thích uyên thâm. Đây chính là những câu mà một triết gia hỏi khi muốn khám phá bản chất của sự vật và phạm vi của sự tồn tại.
Họ kết thúc trận đấu mà vẫn giữ nguyên quan điểm ban đầu. Tuy nhiên, bạn cũng cần học cách nghi ngờ những dấu hiệu đó. Điều này trái ngược với sự thật đã được chứng minh trong lịch sử chính trị.
Dù việc tìm nguyên tắc chủ đạo có khó thế nào, chúng tôi cũng không khuyên bạn đi tắt bằng cách đọc các tác phẩm viết về các triết gia, cuộc đời và quan điểm của họ. Mức độ tương tự trong cách áp dụng quy tắc 3 thay đổi tuỳ theo đặc điểm của sách cũng như mục đích đọc cuốn đó. Trong khi thú tính và sự hoàn chỉnh về mặt lý luận mà nó kéo theo trong mỗi người lại là nguyên nhân của hầu hết các bất đồng.
Thứ hai, nếu lời bình luận đưa ra là đúng thì cũng chưa chắc đã thấu đáo (tức là bạn có thể phát hiện ra những ý nghĩa quan trọng trong một cuốn sách mà một bình luận gia chưa phát hiện thấy). Nếu họ là những phóng viên giỏi thì chúng ta là người may mắn. Tác phẩm Dẫn luận toán học của Whitehead lại mang tính cấp thiết hơi khác.