Loại phương tiện hỗ trợ đọc ngoài này đặc biệt cần khi đọc các tác phẩm lớn. Trong năm hình thức trên, có lẽ phổ biến nhất từ trước đến nay là kiểu viết theo kiểu chuyên luận hay bài luận. Vì thế, cần cả một đoạn văn, hay ít nhất một tập hợp câu để diễn giải một lập luận.
Các từ quan trọng được bạn đánh dấu sẽ dẫn bạn đến những câu cần được lưu ý. Hãy chỉ cho họ cách nói câu này thế nào, diễn cảnh kia ra sao, giải thích tầm quan trọng của những từ ngữ này và tại sao hành động kia lại là cao trào của vở kịch. Trong hình học, từ điểm là một từ cơ bản.
Với một cuốn tiểu thuyết, ta chỉ có thể biết câu chuyện đó là có thật trong thế giới của các nhân vật và sự kiện mà người viết đã tạo ra và tái tạo lại trong mỗi chúng ta. Ví dụ, trong cuốn sách này, từ reading (đọc) đã được sử dụng với nhiều nghĩa khác nhau: (1) đọc để giải trí, (2) đọc để lấy thông tin, (3) đọc để hiểu biết. Còn trong chương kết của cuốn sách On the Motion of the Heart (Vận động của trái tim), nhà sinh lý học William Harvey đã viết: Từ lý luận và thực nghiệm, có thể rút ra kết luận tâm thất co bóp đẩy máu qua phổi và tim rồi truyền đi khắp cơ thể.
Ông ta làm một vài việc rất độc đáo - việc trước đây chưa ai làm và cũng chẳng theo quy luật nào. Nếu bạn muốn diễn đạt chính xác tính chỉnh thể của một cuốn sách (quy tắc 2), bạn phải chỉ rõ được những phần đã làm nên tính chỉnh thể ấy (quy tắc 3). Một ví dụ khác là bài thơ trữ tình To his coy mistress (Gửi tới người yêu bẽn lẽn của anh ấy) của Marvell cũng có nội dung tương tự.
Quan điểm của chúng tôi rất đơn giản. Xét trên phương diện này, đây là kiểu đọc chủ động nhất. Điểm cần nhấn mạnh ở đây là hai phương tiện này cần được sử dụng một cách thông minh và ở mức độ vừa phải vì hai lý do.
So sánh với việc viết và đọc, ta sẽ thấy nội dung viết và đọc cũng giống như quả bóng là thứ bị động chung cho cả hai hoạt động bắt đầu và kết thúc một quá trình nào đó. Những nhà văn này quan niệm tình yêu là một hành động nhận thức, không phải là hành động cảm xúc. Các nghĩa có mối liên hệ nhất định với nhau.
Sẽ là võ đoán chứ không phải biện chứng nếu với mỗi vấn đề quan trọng được nhận diện và phân tích, nó đều khẳng định hoặc cố gắng chứng minh tính đúng đắn hay sai lầm của bất cứ quan điểm nào. Sau một lúc nói với nàng những điều khá hợp tình hợp lý, đột nhiên chàng kêu lên: Em có thành thực không?. Aristotle đã viết: Thi ca triết học nhiều hơn so với lịch sử.
Mặc dù từ bách khoa toàn thư là một từ gốc Hy Lạp, nhưng người Hy Lạp lại không có một cuốn bách khoa toàn thư nào và cũng có thể do cùng một lý do, họ cũng không có lấy một cuốn từ điển. Chúng tôi đã phải đọc soát vài lần nhiều cuốn sách, bài báo và các đoạn văn khác. Để làm được điều này, bạn phải đọc sách với con mắt của tia X.
Giống như bộ khung, phần thịt cũng là một bộ phận không thể tách rời của cuốn sách, vì nó cung cấp thêm một góc nhìn cần thiết cho độc giả. Bạn có thể áp dụng nhiều cách sử dụng từ điển hiệu quả đã nói ở trên đối với bách khoa toàn thư. Sách thực hành bao gồm những cuốn sách mô tả nghệ thuật dành cho người học; những cuốn sổ tay về bất cứ lĩnh vực nào như cơ khí, y khoa, nấu ăn; và cả những sách chuyên luận về kinh tế, đạo đức hay chính trị.
Chúng tôi chỉ ra sự tương phản giữa đọc tích cực và đọc thụ động nhằm hướng mọi người chú ý đến một thực tế là việc đọc ít nhiều đều phải tích cực và càng đọc tích cực, càng có hiệu quả. Tất nhiên, đọc phân tích cũng mang tính chủ động, nhưng khi đọc phân tích, bạn đã tự đặt mình vào mối quan hệ giữa trò với thầy. Các hoạt động này có vai trò rất quan trọng trong quá trình khám phá độc lập.