Ở đây, có ba vấn đề có thể được đặt ra dưới dạng câu hỏi: (1) Tiến bộ có cần thiết không, hay nó chỉ là sự tiếp giáp của các sự kiện? (2) Tiến bộ đương nhiên sẽ tiếp tục, hay cuối cùng nó sẽ kết thúc hoặc rơi vào trạng thái bất biến? (3) Có sự tiến bộ trong bản chất tự nhiên của con người không hay chỉ diễn ra trong các điều kiện bên ngoài của đời sống con người? Vấn đề là có nhiều người cho rằng sự bất đồng ý kiến không liên quan gì đến việc học hỏi hay dạy dỗ. Một triết gia sẽ dẫn người đọc hướng tới kinh nghiệm chung, thông thường của họ để kiểm chứng, xác thực hay ủng hộ những gì người viết đưa ra.
Nhưng triết học không hạn chế ở những câu hỏi lý thuyết. Nhưng đây không phải là đọc lướt qua một cuốn sách một cách tình cờ hay ngẫu nhiên. Không phải số lượng câu hỏi mà chính bản chất của câu hỏi khiến trẻ em khác người lớn.
Mặt khác, giả sử bạn không có chút hiểu biết nào, bạn vẫn có cơ hội hỏi những người hiểu biết, nhưng lời khuyên của những người đó thường là sự cản trở hơn là sự trợ giúp. Ví dụ, người ta viết Tiền Hamlet nhưng thật là nực cười. Chiến thắng đó bây giờ không còn ý nghĩa gì và những thất bại cũng không còn gây đau đớn.
Đến đây, chúng tôi đã hoàn thành phần bàn luận về cấp độ đọc thứ hai - đọc kiểm soát. Làm như vậy không có gì là sai hay xấu xa. Nhưng trong triết học, điều này có thể khác.
Chúng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ đặt ra ở phần mở đầu cuốn sách bằng cách đã chỉ ra rằng hoạt động chính là yếu tố cốt lõi để đọc có hiệu quả và càng đọc chủ động bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu; đã định nghĩa đọc chủ động chính là biết cách đặt câu hỏi, đâu là những câu hỏi cần phải đặt ra khi đọc bất cứ cuốn sách nào và cách thức trả lời với những loại sách khác nhau. Các nhà biên soạn từ điển có thể được mọi người kính trọng vì họ là chuyên gia về cách sử dụng từ, nhưng họ không phải là người tạo ra nền tảng của sự hiểu biết. Do những giới hạn của yếu tố thời đại và sự thừa nhận sai lầm của ông về chế độ nô lệ, Aristotle đã không xem xét, thậm chí không hề có ý tưởng về nền hiến pháp dân chủ thật sự được xây dựng trên chế độ bỏ phiểu phổ thông.
Những thói quen này vừa gây lãnh phí thời gian, vừa làm giảm tốc độ đọc. Điều này xuất phát từ bản chất phức tạp của con người. Vì vậy, chúng ta cần phải dùng lối đi tắt trong đọc đồng chủ đề.
Thơ được định nghĩa một cách đơn giản là những gì thi sĩ viết ra. Ai có thể khẳng định là không có gì khác ngoài âm điệu hoặc cử chỉ trong giao tiếp hữu thanh giữa hai người với nhau? Âm điệu giọng nói rất quan trọng, đặc biệt là khi quan hệ tình cảm là nội dung chủ yếu của cuộc giao tiếp và ngôn ngữ của cơ thể có thể nói với ta nhiều điều nếu chúng ta chịu khó lắng nghe. So sánh lâu hơn, bạn sẽ thấy nghệ thuật bắt bóng là kỹ năng bắt được bóng ném đi theo nhiều cách (ném nhanh theo đường vòng cung, ném xoáy theo đường ziczăc).
Ngược lại, có những người đọc quá nhanh mà lẽ ra họ nên đọc chậm lại. Quy tắc này không nhằm mục đích tìm ra cấu trúc của cuốn sách mà hướng tới việc phân tích nội dung sách hay thông điệp mà tác giả gửi gắm trong đó. Sự quen thuộc của các thuật ngữ cũng như các vấn đề khác trong tác phẩm khoa học xã hội cũng là một trở ngại đối với việc hiểu tác phẩm.
Nếu bạn nhiễm phải thói quen phục thuộc vào lời bình và sách hướng dẫn, bạn sẽ hoàn toàn mất phương hướng khi không có chúng. Cuối cùng, họ vẫn cho rằng vấn đề các tác giả bàn tới không quan trọng bằng cách thức họ bàn bạc. Vì thế, bạn có thể sử dụng nó như một công cụ trợ giúp việc đọc.
Các lý lẽ có thể là những lập luận đơn lẻ mà nếu bạn tìm thấy, bạn sẽ khó bỏ qua những chuỗi câu dài hơn. Mặc dù bất cứ điều gì bạn biết thêm về tác giả và thời đại người đó sống đều hữu ích, nhưng kiến thức uyên bác về hoàn cảnh ra đời của một bài thơ không đảm bảo chắc chắn việc bạn hiểu đúng bài thơ đó. Tác giả lặp đi lặp lại rằng đức hạnh là điểm trung gian giữa hai đối cực sự thiếu hụt và sự vô độ.